Giao tranh trong những năm 1650 Xung đột biên giới Nga – Thanh

Hành động của người Nga (đỏ) và Thanh (xanh da trời) trong khu vực vào những năm 1650, sự di cư của các bộ tộc bên sông Amur về phía nam (màu xanh lá cây)

Năm 1652

Năm 1652, Thuận Trị phát động cuộc tấn công chống lại người Cossack ở Achansk. Một lực lượng tinh nhuệ gồm khoảng 2.000 người, được trang bị cung tên, một số súng hỏa mai và đại bác, được tập hợp ở Ningguta (寧古塔, Ninh Cổ Tháp), một đồn trú của người Mãn ở thung lũng sông Mẫu Đơn.[19][20] Sau đó, tướng Haise (海色, Hải Sắc), chỉ huy của Ningguta, và binh lính khởi hành đến Achansk. Với những khẩu đại bác, quân Mãn đã chọc thủng thành công các bức tường thành của nguời Nga. Tuy nhiên, có thể người chỉ huy đã quá tự tin và không biết về sức mạnh quân sự của Nga, hoặc có thể muốn bắt sống người Nga, người Cossack đã tận dụng thời điểm này và phản kháng quyết liệt, đẩy lùi cuộc tấn công của người Mãn. Cuối cùng, quân Nga giành chiến thắng, giết chết gần 700 người trong khi chỉ mất vỏn vẹn 10 người, theo Khabarov. Người Mãn phải chịu thất bại mặc dù có lợi thế về quân số và phải rút lui về Ningguta.[21][22][23] Trận thua buộc nhà Thanh phải hành động quyết liệt hơn, Haise bị xử tử và thay thế bởi Sarhuda, một chỉ huy với nhiều kinh nghiệm trận mạc.[21]

Năm 1654

Lo ngại ảnh hưởng của Nga đối với các bộ lạc địa phương dọc theo sông Amur và muốn lấy đi nguồn lương thực của người Nga, người Mãn tiến hành tấn công các nhóm người phía bắc trong những năm 1650 và 1660, cướng bức di cư một lượng lớn về phía nam.[24][25][26][27] Vào năm 1654, nhà Thanh cử một đội quân khác, lần này yêu cầu Triều Tiên phái người đến hỗ trợ. Ngay khi nhận tin, Triều Tiên Hiếu Tông cử đi tướng Pyŏn Kŭp (邊岌, Biên Ngập) cùng với 100 điểu thương thủ và 52 lính hậu cần; họ gia nhập lực lượng người Mãn ở Ningguta sau 8 ngày.[28][29]

Trong khi đó, vào năm 1653, Onufriy Stepanov thay thế Khabarov và tiếp tục các hoạt động dọc theo sông Amur. Đối mặt với nguồn cung cấp cạn kiệt, Stepanov đi về phía nam. Khi mùa xuân đến, thêm 50 người Cossack từ hồ Baikal gia nhập đội quân của Stepanov. Họ đi thuyền về phía cửa sông Tùng Hoa, nơi chạm trán với liên quân Thanh-Triều Tiên.[26][30]

Cả hai bên trao đổi hỏa lực dữ dội. Quân của Stepanov có 400 người và 39 tàu, nhưng với ưu thế vượt trội về kích thước tàu, hỏa lực và năng lực chiến đấu, người Nga vượt trội trước hạm đội 160 tàu và 1.000 lính Thanh-Triều Tiên trên sông, buộc họ bỏ tàu lên bờ. Trong khi đó, trên bờ, đặc biệt là ở một ngọn đồi nhìn ra hợp lưu sông Tùng Hoa và Mẫu Đơn, có đồn trú 100 lính điểu thương thủ Triều Tiên, 300 người Daur và 300 người Mãn, cố thủ trong chiến hào sau các chiến lũy. Khi người Nga đuổi theo tới nơi, Pyŏn Kŭp và những điểu thương thủ đã lật ngược tình thế, gây ra thương vong nặng nề, buộc quân Nga phải rút lui. Liên quân Thanh-Triều Tiên truy đuổi trong 3 ngày. Quân của Stepanov chạy lên sông Amur và thậm chí qua sông Zeya. Quân Thanh sau đó xây một pháo đài đất bên sông Amur, và rút về Ningguta.[31][32]

Mặc dù lực lượng suy giảm và mất tinh thần, quân của Stepanov vẫn còn và tiếp tục gây ảnh hưởng dọc theo sông Amur trong nhiều năm tiếp theo.[33] Cũng phải nói thêm, một số bộ lạc bản địa coi sự hiện diện của người Cossack là cơ hội để nổi lên chống lại nhà Thanh. Năm 1654, Khabarov, khi đi thuyền xuống sông Shilka, chạm trán với một bộ tộc người Ducher. Những người bản địa này yêu cầu người Nga bảo vệ họ khỏi một chỉ huy người Mãn địa phương. Để đổi lấy sự bảo vệ như vậy, họ hứa sẽ quy thuận Sa hoàng và nộp yasak, cũng như cho Khabarov biết vị trí của một số tuyến đường.[34] Những lời hứa bảo vệ của Cossack khiến nhiều người quy phục, trong đó có một số người người Hán Phản Thanh phục Minh. Trong một cuộc tấn công năm 1654 xuống sông Tùng Hoa, Stepanov và Khabarov chạm trán với một người Hán, trốn chạy khỏi nhà Thanh và và xin gia nhập những người Cossack.[34]

Năm 1655

Năm 1655, khi đang đi dọc theo sông Argun, Stepanov tìm thấy một số ngôi làng vốn đã cống nạp cho nhà Thanh, khiến những người Cossack không thể áp đặt yasak, buộc họ họ quay trở lại phía bắc.[35]

Trên sông Kumar, Stepanov xây lại một pháo đài cũ tên là Kumarsk mà Khabarov trước đó xây. Sau trận chiến năm 1654, dự đoán trước sẽ bị tấn công, người Nga đã cố gắng gia cố Kumarsk hết sức có thể, bao gồm các bức tường đất phía sau 1 con mương sâu và rộng, 4 bức tường thành, 1 dãy hàng rào kép cho phép hỏa lực phòng thủ từ các bệ nâng và hệ thống đường ống dẫn nước xung quanh pháo đài để ngăn cháy. Sự chuẩn bị của Stepanov được đền đáp vào năm 1655 khi 1 đội quân nhà Thanh gồm 10.000 người do Mingandali (明安達理, Minh An Đạt Lý) chỉ huy với 15 khẩu đại bác, nhiều súng hỏa mai vây hãm thành Kumarsk. Bị áp đảo về quân số, lực lượng phòng thủ đã chống trả quyết liệt, đã đẩy lùi các cuộc tấn công của người Mãn. Sau nhiều ngày giao tranh ác liệt mà không có kết quả, quân Thanh rút lui do thiếu lương thực.[36][30] Khi quân Thanh bao vây Kumarsk, hai tù nhân người Hán đảo tẩu sang phía Nga, muốn gia nhập và rửa tội theo đạo Thiên chúa.[37]

Năm 1658

Sau cuộc vây hãm thất bại, Sarhuda có lẽ nhận ra rằng chiến đấu với quân Nga sau những bức tường kiên cố là vô ích. Vào năm 1657, ông củng cố đội tàu, xây dựng xưởng đóng tàu trên thượng nguồn sông Tùng Hoa (thành phố Cát Lâm ngày nay) và bắt tay vào đóng những chiến thuyền lớn. Nhà Thanh một lần nữa yêu cầu Triều Tiên mang quân tới giúp, lần này do tướng Shin Ryu (申瀏, Thân Lưu) dẫn đầu, đến Ningguta cùng với 200 điểu thương thủ và 60 lính hậu cần vào ngày 9 tháng 5. Hạm đội nhà Thanh được trang bị 50 khẩu đại bác nhiều kích cỡ, cùng với 100 pháo binh từ Bắc Kinh. Một ngày sau khi Shin Ryu đến, liên quân Thanh-Triều Tiên lên thuyền tới cửa sông Tùng Hoa. Sau 5 ngày, họ bắt gặp 1 nhóm người Jucher, thông báo cho họ vị trí của người Nga. Ngày hôm sau, đoàn quân dừng lại ở cửa sông Tùng Hoa và chờ đợi 50 chiến thuyền tiếp viện từ Bắc Kinh và Thẩm Dương.[38]

5 ngày trước khi tiếp viện đến, 40 người Nanai tới đồn điền, báo tin rằng người Nga sắp đầu hàng vì bị tổn thất trong các cuộc giao tranh với nhà Thanh và có ít lương thực. Theo Shin Ryu, người Mãn không tin tưởng những người Nanai này do từng làm việc cho người Nga ở Achansk. Shin Ryu thì suy đoán rằng sau khi nghe tin nhà Thanh cho quân tới, họ có lẽ đã đổi phe, và cung cấp thông tin để đổi lấy sự bảo vệ.[39]

Lực lượng tiếp viện đến vào ngày 2 tháng 6, và 3 ngày sau, đội tàu ra khơi, nhanh chóng tiến về nơi giao giữa sông Amur và Tùng Hoa. Vào ngày 10 tháng 6, sau khi qua cửa sông Amur khoảng 10 km, đoàn quân nhìn thấy Stepanov và ngay lập tức truy đuổi. Lực lượng Thanh-Triều Tiên áp đảo về quân số với khoảng 1.400 binh lính. Nguời Nga nhanh chóng rút lui và dàn hàng phòng thủ dọc theo bờ sông. Cả hai bên bắt đầu bắn nhau khi khoảng cách chỉ còn 500m. Quân Thanh-Triều Tiên áp sát quân Nga, tấn công theo ba mũi nhọn, dồn đạn pháo vào hạm đội Nga. Những người Cossack sớm bị áp đảo và vỡ đội hình.[40][41]

Người Cossack đã lợi dụng sự do dự của Sarhuda muốn lấy tàu Nga làm chiến lợi phẩm và phản công dữ dội, giết chết 7 điểu thương thủ Triều Tiên cùng nhiều lính bộ binh nhà Thanh. Quân Thanh sử dụng các mũi tên lửa vào hạm đội Nga và thiêu rụi 7 chiến thuyền. Một số người Cossack trong lúc lộn xộn đã chiếm lấy thuyền của nhà Thanh và trốn thoát, nhưng gần một nửa tử trận, bao gồm cả người đứng đầu, Stepanov. Số người chết bên quân Thanh lên tới 110 người cùng với 200 người bị thương. 8 điểu thương thủ Triều Tiên thiệt mạng và 25 người bị thương.[42][43][25]

Trận chiến năm 1658 đã giết chết Stepanov và hơn một nửa quân đội của ông, buộc các lực lượng Nga còn lại — khoảng 220 người Cossack — phân tán khắp nơi. Hầu hết thoát khỏi sự kiểm soát của Nga. Nga còn người để thu thập cống nạp trong khu vực, mất quyền kiểm soát hạ lưu sông Amur cho đến tận Nerchinsk. Mặc dù một nhóm người Cossack độc lập quay trở lại Albazin vào những năm 1660, Nga rút gần như toàn bộ khỏi vùng Amur sau 1658, khiến khu vực này trở thành vùng đất không người.[44][45][46]